Duy Mai đầu tư cấp vốn, hướng dẫn kỹ thuật nuôi trồng chăm
sóc rong cho nhiều chủ đầm tại các tỉnh thành trên cả nước Hải phòng,T hái bình,
Thanh hóa, Ninh bình, Phú yên.., đảm bảo bao tiêu đầu ra cho nông dân, ổn định
thu nhập. Bằng cách đó chúng tôi đã gắn bó với nhau hơn 20 năm, sản phẩm Agar –
Agar Duy Mai luôn được sản xuất bởi Rong câu có chất lượng tốt và ổn định nhất.
I: KỸ THUẬT TRỒNG RONG SỤN.
Rong sụn phù hợp đặc biệt với môi trường ven biển miền Trung và Nam nước ta, chúng có thể trồng được ở các bãi ngang nông, ở các vùng triều cạn, vùng nước sâu ven các đầm phá (lagoon), ven biển và ven các đảo.
1.1/ Ðặc tính sinh học của rong sụn
1.1.1/ Ðộ mặn
Rong sụn là loài rong ưa mặn chỉ sinh trưởng và phát triển tốt
ở vùng nước có độ mặn cao (28 -32 phần ngàn), ở độ mặn thấp (18-20 phần ngàn)
rong sụn chỉ có thể tồn tại trong thời gian ngắn (5-7 ngày) và nếu kéo dài nhiều
ngày rong sẽ ngừng phát triển và dẫn đến tàn lụi.
1.1.2/ Dòng chảy và lưu thông
Rong phát triển tốt ở vùng nước thường xuyên trao đổi và
luân chuyển (tạo ra do dòng chảy, dòng triều hay sóng bề mặt). đây là yếu tố cực
kỳ quan trọng ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng và phát triển cũng như chất lượng
của rong sụn.
1.1.3/ Nhiệt độ
Nhiệt độ thích hợp nhất để rong sụn sinh trưởng và phát triển
là 25 -28 độ C. Nhiệt độ cao hơn 30 độ C và thấp hơn 20 độC sẽ ảnh hưởng đến
sinh trưởng của rong, nếu nhiệt độ thấp hơn 15 -18 độ C rong ngừng phát triển.
1.1.4/ Cường độ ánh sáng
Thích hợp nhất 30.000 - 50.000 lux, ánh sáng cao quá hay thấp
quá ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của rong.
1.1.5/ Yêu cần dinh dưỡng
Trong điều kiện nhiệt độ không quá cao, nước được trao đổi
thường xuyên rong sụn hầu như không đòi hỏi nhiều về các chất dinh dưỡng, các
chất dinh dưỡng có sẵn trong nước biển đủ cung cấp cho cây rong Sụn phát triển.
Chỉ trong điều kiện nước tỉnh, ít được trao đổi và nhiệt độ nước cao (mùa nắng
- nóng, trong các thủy vực nước yên như : ao, đìa nhân tạo) rong sụn đòi hỏi
dinh dưỡng (các muối Amon và Phot phat) cao hơn cho sự sinh trưởng. Nhìn chung ở
các vùng có hàm lượng các muối dinh dưỡng (Amon, Nitrat, Phot phat) cao, tốc độ
sinh trưởng của rong sụn cao và có thể giúp cây rong sụn phát triển bình thường
trong các điều kiện không thuận (nhiệt độ cao, độ muối thấp, nước ít lưu chuyển)
1.2/ Chọn vùng trồng rong sụn
Việc chọn vùng trồng có tính quyết định đến năng suất, chi
phí sản xuất, tính ổn định ( thời gian trồng quanh năm, hay theo mùa thích hợp)
hiệu quả kinh tế trong trồng rong sụn, các yêu cầu chủ yếu trong việc chọn vùng
trồng như sau:
- Nước có độ muối cao
( 28-30 phần ngàn) và ổn định, xa các nguồn nước ngọt trực tiếp đổ ra.
- Ít chịu ảnh hưởng
trực tiếp của sóng gió mạnh (làm gãy dàn trồng và gãy nát rong) của các mùa gió
(Ðông Bắc và Tây Nam).
- Nước luôn được luân chuyển hay trao đổi tốt (thường tạo ra
do các dòng chảy, dòng triều hay sóng gió bề mặt). Các nơi có dòng chảy tốt nước
thường xuyên lưu chuyển với lưu tốc vừa phải (20 - 40m/phút) sẽ làm cho cây
rong luôn được rửa sạch, đặc biệt giúp cho cây rong chống lại được các điều kiện
môi trường bất lợi (nhiệt độ, độ muối, pH, các chất khí hòa tan,.) gây hại đối
với sự sinh trưởng của cây rong.
- Ðối với các bãi ngang, vùng triều cạn, khi thủy triều rút
thấp nhất nước phải còn lại ở độ sâu ít nhất 0,5 m, đảm bảo rong không bị phơi
ra ngoài không khí và biên độ thủy triều không nên lớn quá 2m, nếu cao quá sẽ
khó khăn trong hoạt động trồng, chăm sóc, thu hoạch,.
- Ðáy vùng trồng tốt nhất là đáy cứng (cát thô đến san hô
vun, thêm vào đó nếu có nhiều rong biển và cỏ biển tự nhiên mọc điều đó chứng tỏ
nước ở đó luân chuyển và trao đổi tốt. Ðáy cát (mịn) bùn hay bùn cát đều ít tốt
cho trồng rong Sụn, nó chứng tỏ dòng chảy của nước ở đây yếu.
Nhìn chung rong sụn
có thể trồng ở các thủy vực và mặt nước khác nhau ven biển và ở các đảo từ độ
sâu 0,5 -5 -10 m, có thể trồng quanh năm (ở các diện tích có điều kiện môi trường,
nhất là độ mặn và sóng gió, thích hợp và ổn định ; hoặc theo mùa có điều kiện
môi trường thích hợp. Song vùng trồng thích hợp và mang lại hiệu quả cao là
vùng nước vừa đảm bảo được các yêu cầu về điều kiện sinh thái môi trường ổn định
qua các mùa, dàn trồng và cây rong ít bị hư hại do tác động cơ học của gió to
sóng lớn qua các mùa, chi phí cho trồng rong thấp, các hoạt động trồng (làm dàn
rong, buộc giống, chăm sóc, thu hoạch,. ) có thể thực hiện dễ dàng .. Kinh nghiệm
cho thấy các vùng bãi ngang đáy cát vùng triều có độ sâu thấp và vừa phải ở ven
biển. Ven các đầm phá, ven đảo là thuận lợi cho trồng rong sụn.
1.3/ Chọn rong giống
- Ta chọn các loại rong khỏe, đường kính thân rong 3-5 mm,
nhánh dài 5 -7 cm, có màu xanh lục thẫm. mượt, không có rong tạp bám.
- Rong được bẻ thành những cụm nhỏ có trọng lượng từ 100 -
150g/cụm làm giống.
- Lưu ý khi chuyển giống từ nơi khác đến nơi trồng cần phải
có biện pháp che nắng, giữ độ ẩm cho rong.
1.4/ Cách trồng và bố trí giàn rong
1.4.1 Cách trồng ở các thủy vực.
Có thể trồng rong sụn bằng nhiều hình thức khác nhau như: Trồng
đáy, trồng bằng dàn bè, trồng bằng hình thức dây đơn căng trên đáy, trong đó hiện
nay tại Ninh Thuận phương pháp trồng bằng dây đơn căng trên đáy được áp dụng rộng
rãi và được đánh giá là có nhiều ưu điểm hơn cả.
a/ Trồng ở các đầm vịnh ít sóng gió theo phương pháp dây đơn
căn trên đáy:
- Chọn các khu vực bằng phẳng, dọn sạch rong tảo và các loại
thực vật khác.
- Dùng cọc tre có đường kính 3-5cm, chiều dài 1-1,2m. các cọc
được đóng thành hàng xuống đáy, mỗi cọc cách nhau 0,7-1m, hai hàng cọc cách
nhau 10m, ở khoảng giữa có thể xen 1 cọc phụ. Các hàng cọc nên đặt thẳng góc với
hướng gió để cho các dây rong song song với hướng gió.
- Buộc dây căng bằng sợi cước nilon đường kính 1 -2mm ở giữa
hai hàng cọc. Dây căng cách đáy 0,2 - 0,5m, trên các dây căng có buộc các phao
để cố định cách mặt nước 0,3 - 0,4m.
- Dùng dây nilon mềm, cắt đoạn 20cm, một đầu buộc vào bụi
rong giống, đầu kia buộc vào sợi dây căng. Khoảng cách buộc giữa hai bụi rong từ
0,25 - 0,3m.
b/ Trồng ở bãi triều, ở các khu vực nước sâu theo phương
pháp giàn bè có phao nổi
- Dùng gỗ hoặc tre ống dài 4-5m làm thành khung hình chữ nhật
có kích thước 3x4 m. Xung quanh bao lưới để giảm sóng, tránh cá tạp ăn rong.
- Buộc dây thừng hay dây nilon f =0,5-1 cm của các cạnh đối
nhau.
- Buộc các dây căn trong khung thành từng dãy cách nhau 0,4
m hàng cách hàng 0,4 m
- Rong giống được buộc vào các dây căng cách nhau 0,25-0,3 m
tùy từng điều kiện và cách trồng quyết định vật liệu làm khung.
- Các đầu góc của khung được buộc dây và neo chặt xuống đáy,
bên trên buộc các phao nổi. Dây nối giữa các phao và giàn dài 3-4 m dưới khung
cố định để giữ bè rong luôn luôn cách mặt nước 0,4-0,5 m.
c/ Trồng trong ao nuôi tôm
- Trong ao nuôi tôm có thể trồng luân canh 1 vụ tôm 1 vụ
rong để hạn chế sự ô nhiễm môi trường ao nuôi. Chọn những ao có 2 cống lấy nước,
xả nước độ mặn ổn định 26 phần ngàntrở lên, mực nước trong ao từ 0,8 -1,0 m, độ
trong 50 -60 cm.
- Có thể rải rong giống trực tiếp trên đáy, hoặc dùng rong
giống buộc vào dây đơn cố định bằng phao, hoặc cọc cách đáy 0,2 -0,3 m.
- Mật độ trồng: 500g/m2.
Kinh nghiệm trồng rong sụn ở Khánh Hòa
1. Vận chuyển rong giống
Dùng sọt tre hay bao để đựng rong giống (không nên nén chặt
rong với nhau). Nếu vận chuyển lượng lớn, phải đi xa nên dùng xe tải có máy lạnh,
nhớ định giờ để tưới nước biển giữ độ ẩm cho rong.
2. Mùa vụ trồng rong sụn (Áp dụng cho các tỉnh Trung và Nam
Trung bộ)
Mùa chính: Thường từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau, còn ở các
tỉnh Nam bộ thường từ tháng 6 đến tháng 3 năm sau.
Mùa phụ: Từ tháng 4 đến tháng 6
3. Thời gian trồng và cách sơ chế
Kể từ ngày ra giống, với trọng lượng giống ban đầu 80 -
100g/bụi, đến trọng lượng đạt từ 1kg trở lên và thu hoạch. Kinh nghiệm cho thấy,
nếu trồng rong sụn ở các vùng nước cạn, dòng chảy và sự lưu chuyển của nước yếu,
vào mùa nhiệt độ cao... thì sau 2 - 2,5 tháng mới cho thu hoạch. Nếu ở những
vùng nước sâu, biển hở, sóng gió và sự lưu chuyển của nước tốt có thể sau 45 -
50 ngày là thu hoạch được.
Cách sơ chế: Phơi vài ngày nắng (tùy thuộc vào mức độ) cho đến
khi rong khô và xuất hiện lớp muối trắng trên bề mặt rong là được. Gỡ bỏ rác,
dây buộc còn sót, giũ sạch cát muối rồi cho vào bao, cất giữ nơi thoáng mát,
tránh ẩm, đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng nguyên liệu.
4. Bệnh rong và biện pháp phòng ngừa
- Bệnh trắng lũn thân là một bệnh chủ yếu và phổ biến nhất đối
với rong sụn, nó gây thiệt hại ở nhiều mức độ khác nhau về sản lượng cũng như
chất lượng...
- Trồng rong ở những vùng có dòng nước chảy, không kín sóng
gió, xa nguồn nước ngọt, tránh vùng nước quá cạn và quá kín sóng gió. Sự lưu
chuyển tốt của nước luôn là nhân tố quan trọng nhất trong nghề trồng rong sụn.
- Các giàn trồng rong cần có kích thước nhỏ đến vừa, mỗi
giàn chỉ nên có kích thước tối đa 2000 - 3000m2 để dễ dàng trong việc điều chỉnh
độ sâu của giàn cũng như thuận lợi cho việc xử lý khi bệnh rong xuất hiện.
5. Biện pháp xử lý bệnh xảy ra
Bệnh xuất hiện phát triển nhanh và lây lan. Khi rong bệnh cần
phải xử lý bằng cách:
- Thu và cắt bỏ các phần bị bệnh rồi buộc giống trở lại.
- Hạ giàn rong xuống sâu 0,6 - 0,8m cách mặt nước.
- Di chuyển giàn trồng đến vùng dòng nước chảy tốt, thường
xuyên có gió và sóng.
II. KỸ THUẬT TRỒNG RONG CÂU GRACILARIA
1. Lựa chọn vị trí
Yêu cầu cơ bản là phải có sự hiểu biết về các đặc điểm sinh
thái cần thiết của cây rong và phương pháp nuôi trồng được chọn. Nhìn chung có
3 dạng vị trí nuôi trồng: các vùng bên trong vịnh, các vùng xa bờ và nuôi trong
ao.
a. Tiêu chuẩn lựa chọn vị trí bên trong vịnh
- Nơi tránh bão lụt, sóng lớn, nước bị ô nhiễm; gần nguồn nước
ngọt.
- Đáy bằng, rộng; đáy cát bùn.
- Độ sâu chỉ yêu cầu còn lại nước trong thời gian nước rút
b. Tiêu chuẩn lựa chọn vị trí xa bờ
- Nơi tránh gió bão, nước bị ô nhiễm.
- Độ sâu ( 1,5 m lúc triều rút; độ trong cao; [N] > 50
mg/m3.
Chủ yếu là nuôi trồng theo phương pháp dàn bè.
c. Tiêu chuẩn lựa chọn ao nuôi trồng
- Đáy cát bùn, bùn cát.
- Độ sâu 0,3 - 0,5 m; Tỷ trọng 1.005 - 1.015; Nhiệt độ 20 -
300C; pH = 8.
2. Chuẩn bị cây giống
a. Thu bào tử và ương giống ở biển
Chọn vị trí: Vị trí để thu bào tử và ương giống ở biển là
nơi bằng phẳng; đáy cứng, nếu tốt thì có vỏ động vật thân mềm, đá nhỏ, san hô vụn
…; nước sạch; tỷ trọng 1.010 – 1.025; độ sâu: triều rút vẫn còn nước.
Chuẩn bị vật bám: Vật bám đa dạng (đá nhỏ, vỏ động vật thân
mềm, mảnh san hô …) nhưng bề mặt vật bám nên sạch và bào tử dễ bám (nhám).
Chuẩn bị cây bố mẹ: Cây khỏe, nhánh xum xuê, nguyên vẹn,
không xây xát. Có nhiều túi bào tử trên đó. Đặc điểm của túi bào tử quả thành
thục: Cystocarp lộ ra bên ngoài; phần đỉnh của cystocarp tròn và láng, lỗ của
cystocarp trong suốt và hơi trắng, chiều cao của cystocarp lớn hơn đường kính
thân rong; Nếu có một điểm trắng lớn, có nhiều lỗ chứng tỏ bào tử đã được phóng
ra.
Đặc điểm của túi bào tử bốn thành thục: Bào tử bốn thành thục
là những chấm đỏ lớn phân bố đều khi quan sát ngược ánh sáng. Túi bào tử bốn có
một rãnh hình chữ nhật rất rõ khi quan sát qua kính hiển vi.
Xử lý cây bố mẹ và thu bào tử:
Phương pháp 1:
Một lượng nào đó cây bố mẹ được chừa lại khi thu hoạch. Vật
bám được vãi ra. Bào tử phóng ra sẽ bám vào vật bám và nẩy mầm. Phương pháp này
sử dụng ở nơi mà Gracilaria phát triển tự nhiên (bãi triều).
Phương pháp 2:
Cây bố mẹ được kích thích khô để phóng bào tử. Cây bố mẹ khỏe
mạnh, thành thục được tuyển chọn, rửa sạch bằng nước hiện trường. Sau đó chúng
được phơi khô trong bóng râm hoặc dưới ánh sáng mặt trời. Nếu phơi khô trong
bóng râm, cây bố mẹ có thể được xếp lên trên dàn tre hoặc treo thành từng bó
trong 2 - 4 giờ. Thời gian phơi khô thay đổi tùy thuộc nhiệt độ, độ ẩm và sự
lưu chuyển không khí. Khi bề mặt cây rong khô và xuất hiện vài nếp nhăn thì
ngưng xử lý. Nếu phơi khô dưới ánh sáng mặt trời, thỉnh thoảng cây phải được đảo.
Thời gian kích thích ngắn.
Sau khi kích thích khô, cây được cắt thành 2 - 3 đoạn dài.
Nhìn chung, cần khoảng 200 - 300 kg rong tươi/ha. Cây được rải lên vị trí nuôi
trồng. Chúng hấp thụ nước và phóng bào tử. Bào tử phóng ra bám vào vật bám và
phát triển.
Phương pháp này thích hợp những nơi mà không tìm được nhiều
cây rong thành thục. Công việc được tiến hành vào ngày đẹp trời, vào lúc chiều
tối.
Phương pháp 3 (phương pháp vãi nước bào tử):
Cây thành thục qua kích thích khô được cho vào thùng gỗ hay
bể lớn, sạch, chứa nước biển hiện trường. Chúng được khuấy liên tục bằng cây (để
giúp phóng bào tử).Cây rong bố mẹ sau đó được chuyển vào thùng gỗ hoặc bể khác
để tiếp tục thu bào tử. Bào tử được phóng ra liên tục, vì vậy cần chuẩn bị nhiều
thùng, bể. Thời gian triều rút phải được xác định trước đó để đổ "nước bào
tử" lên vị trí nuôi trồng trong thời gian này.
Phương pháp này giúp tiết kiệm rong bố mẹ.
b. Thu bào tử và ương giống ở trong phòng
Đặc điểm của phương pháp này như sau: Rửa sạch cây rong bố mẹ,
loại bỏ sinh vật địch hại: khuê tảo, protozoa, giun… Vật bám được rửa sạch và
thanh trùng (thường dùng NaClO 1 - 3%, KMnO4 0,5%). Nước biển được lọc sạch đảm
bảo: nhiệt độ 20 - 250C; tỷ trọng: 1.020; [N] = 1 ppm; cường độ ánh sáng: Ias =
5000 lux.
Việc thu bào tử được tiến hành trong phòng qua phương pháp
kích thích khô. Khi bào tử nẩy mầm và phát triển đến giai đoạn thân thẳng thì
chúng được chuyển đi nuôi trồng ở biển.
c. Sản xuất giống cây mầm
- Cơ sở: Căn cứ đặc điểm của rong câu trong đầm nước lợ (có
khả năng sinh sản dinh dưỡng); căn cứ mùa vụ sinh sản của rong câu trong đầm nước
lợ (2 vụ: Đông Xuân từ tháng 2 - 5, Hè Thu từ tháng 10 - 12).
- Tiến hành:
c1. Chuẩn bị ao đầm: Ao đầm sản xuất giống có diện tích chiếm
1/4 - 1/5 tổng diện tích nuôi trồng, diện tích ao 100 - 1000 - 4000 - 5000 m2
tùy điều kiện thực tế.
Kỹ thuật cải tạo ban đầu ao đầm nước lợ:
Đầm cũ (đã trồng): Tháo cạn nước, vơ sạch rong cỏ tạp, bón
lót phân chuồng (bắc) 5-10 tấn/ha, và vôi bột.
Đầm mới: Tháo cạn nước, vơ sạch rong cỏ tạp, bừa đáy tạo lớp
bùn nhuyễn 10 cm, bón phân hữu cơ 5-10 tấn/ha, và vôi bột.
c2. Chuẩn bị cây bố mẹ: Cây giống bố mẹ là rong trưởng
thành, ít nhất là 2 - 2,5 tháng tuổi, chiều dài 20 - 40 cm, khối lượng tối thiểu
2,5g, màu sắc tươi sáng, cơ thể hòan chỉnh, không dập nát …
c3. Xử lý cây bố mẹ: Rửa sạch, nhặt tạp; rong được xé tơi
ra; hồ phân vô cơ giúp cho cây tăng nhanh sinh trưởng.
Kỹ thuật hồ phân:
Cơ sở: Khả năng hấp thụ muối dinh dưỡng qua bề mặt cơ thể của
rong và sử dụng dần, sự thẩm thấu, và nhu cầu lớn về chất khoáng của rong.
Tiến hành: Loại phân cần hồ là N, P. Hàm lượng phân tùy thuộc
loài rong, ví dụ với G. asiatica thì cần 10 kg urê, 10 kg super photphat trong
50 m3 nước hiện trường cho 1 tấn rong nguyên cây. Thời gian hồ 12-24 giờ (nếu
rong được cắt thành từng đoạn ngắn thì thời gian hồ ngắn hơn). Hồ phân được thực
hiện trong bể xi-măng hoặc ao đất (50-100 m2).
c4. Gieo giống: Thường vào lúc sáng sớm. Phương pháp: gồm
gieo cạn và gieo nước. Gieo cạn: phải tháo cạn nước, để lại một lớp bùn để có độ
lún nhất định; gieo như gieo mạ thành luống. Gieo nước: áp dụng nơi không có điều
kiện tháo nước, dùng thuyền chở giống và vãi theo cọc cắm sẵn. Mật độ: gieo để
trồng lớn, không san thưa mật độ 80 - 100g/m2; gieo để san thưa mật độ 200 -
300g/m2.
c5. Quản lý chăm sóc: Thay nước theo thủy triều. Khống chế
các yếu tố sinh thái ở điều kiện thích hợp (nhiệt độ, độ mặn, pH, rong tạp…).
Kiểm tra cây rong.
c6. Thu hoạch: Tiêu chuẩn rong thu hoạch: chiều dài 5 - 10
cm, khối lượng 0,01 – 0,1 g/cây, có nhánh cấp 1, ít nhánh cấp 2, màu sáng hoặc
vàng sẫm, sinh lượng 1000 - 2000g/m2. Phương pháp: rút cạn nước còn 15 - 20 cm,
dùng tay vơ rong, rửa sạch bỏ lên thuyền chở đến nơi trồng.
Nhìn chung, sản xuất giống cây mầm dễ tiến hành hơn so với sản
xuất giống bào tử nên thích hợp cho việc trồng rong ở qui mô sản xuất nhỏ. Ngược
lại, sản xuất giống bào tử, mặc dù khó hơn, nhưng với các ưu điểm của mình, nó
thích hợp cho sản xuất rong biển qui mô công nghiệp.